Glucose là nguồn cung cấp năng lượng chính cho tế bào của cơ thể. Vì vậy, nồng độ glucose trong máu cần ổn định để duy trì chức năng bình thường của cơ thể. Vậy nồng độ glucose trong máu bao nhiêu là bình thường? Thừa glucose có những tác hại gì? Hãy cùng ICondom tìm hiểu.
Xét nghiệm glucose trong máu là gì và có ý nghĩa thế nào?
Xét nghiệm glucose hay còn gọi là xét nghiệm đường huyết dùng để đo lượng đường trong máu vào thời điểm lấy mẫu thử.
Đây là một xét nghiệm có ý nghĩa rất lớn trong việc phát hiện những trường hợp tăng hoặc giảm đường huyết, giúp cho việc chẩn đoán bệnh tiểu đường và theo dõi lượng đường huyết ở người bệnh tiểu đường.
Lấy mẫu xét nghiệm glucose trong máu khi nào?
Đường huyết có thể được đo vào lúc đói (lấy mẫu sau 8 – 10 tiếng nhịn đói), cũng có thể lấy 1 cách ngẫu nhiên ở bất kỳ thời điểm nào, sau bữa ăn, hoặc sẽ là 1 trong những bước của chuỗi xét nghiệm OGTT ( xét nghiệm mức độ dung nạp glucose)
Kết quả xét nghiệm glucose trong máu bao nhiêu là bình thường?
Nồng độ đường huyết cao thường là dấu hiệu của bệnh đái tháo đường. Tùy vào phương pháp đo lường mới đánh giá được nồng độ glucose trong máu bình thường hay không.
Thời điểm lúc đói
Thời điểm này, đường huyết sẽ được đo vào buổi sáng ngay sau bạn thức dậy và chưa ăn hay uống gì.
- Thông thường, chỉ số đường huyết lúc này sẽ ở khoảng từ 70mg/dl tức 3.9 mmol/L đến 92 mg/dl tức 5.0 mmol/L được coi là bình thường.
- Trong trường hợp đo được từ 100 – 125 mg/dL tức là khoảng từ 5.6 – 6.9 mmol/L có nghĩa là bạn bị suy giảm đường huyết lúc đói còn gại là tiền đái tháo đường.
- Trường hợp đo được > 126mg/dL tức > 7.0 mmol/L trong 2 lần thử khác nhau thì chứng tỏ bạn bị đái tháo đường.
Sau khi ăn
- Với thời điểm sau khi ăn khoảng 1 – 2 tiếng, chỉ số đường huyết được xác định bình thường khi <120mg/dL tức 6.6 mmol/L.
- Chỉ số đường huyết đo được trong khoảng từ 140 – 200 mg/dL tức là từ 7.8 – 11.1 mmol/L cho thấy bạn đang bị rối loạn dung nạp glucose.
- Đối với trường hợp đo được chỉ số đường huyết > 200 mg/dL tức > 11.1 mmol/L trong 2 lần đo có nghĩa là bạn bị đái tháo đường.
Với phụ nữ mang thai
Khi mang thai, lượng máu trong cơ thể phụ nữ tăng lên để đáp ứng nhu cầu cho hai người, vì thế, lượng đường trong máu sẽ giảm. Mức đường huyết bình thường đối với phụ nữ mang thai thấp hơn so với những người không mang thai.
Dựa trên các nghiên cứu hiện nay, đường huyết bình thường trong thai kỳ nằm trong khoảng:
– Đường huyết lúc đói: 70,9 mg/dL ± 7,8 (3,94 mmol/L ± 0,43)
– Đường huyết một giờ sau ăn: 108.9 mg/dL ± 12.9 (6.05mmol/L ± 0.72)
– Đường huyết hai giờ sau ăn: 99.3 mg/dL ± 10.2 (5.52mmol/L ± .57)
Phụ nữ mang thai mắc đái tháo đường nên duy trì đường huyết ở mức:
– Đường huyết lúc đói: 79 mg/dL (4.4 mmol /L)
– Đường huyết một giờ sau ăn: 122 mg/dL (6.8 mmol/L)
– Đường huyết hai giờ sau ăn: 110 mg/dL (6,1 mmol/L)
Glucose trong máu tăng cao lại có hại như thế nào?
Khi ở mức bình thường, glucose là nhiên liệu quý giá để tạo năng lượng cho tất cả các tế bào trong cơ thể. Tuy nhiên, khi nồng độ tăng lên, glucose không vào được tế bào có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.
Lượng đường trong máu cao làm giảm khả năng tiết insulin của các tế bào tuyến tụy. Để đáp ứng đủ nhu cầu của cơ thể, tuyến tụy phải làm việc ngày một nhiều hơn cho đến khi bị quá tải và hư hỏng.
Đường huyết cao cũng có thể làm cho mạch máu bị xơ cứng, còn gọi là tình trạng xơ vữa động mạch. Hầu hết các bộ phận trên cơ thể đều có khả năng bị tổn thương do đường huyết cao. Mạch máu bị hư hỏng có thể dẫn đến một loạt vấn đề nghiêm trọng, bao gồm:
– Bệnh thận hoặc suy thận, cần phải lọc máu nhân tạo
– Đột quỵ não (nhồi máu não)
– Nhồi máu cơ tim
– Suy giảm thị lực hoặc mù lòa
– Suy giảm miễn dịch, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng
– Rối loạn chức năng cương dương
– Làm hỏng các dây thần kinh, được gọi là bệnh thần kinh đái tháo đường, gây ngứa, đau hoặc giảm cảm giác ở bàn chân, cẳng chân và bàn tay
– Làm chậm lành vết thương, gây viêm loét và phải cắt cụt chân (đoạn chi)
Như vậy, xét nghiệm glucose trong máu là một trong các xét nghiệm tiểu đường. Do đó, kết quả xét nghiệm glucose trong máu là cơ sở quan trọng để phát hiện và chẩn đoán bệnh mà chúng ta nên đặc biệt lưu ý.
Be the first to write a comment.